Phát triển năng lực nghề nghiệp cho sinh viên trong mô hình đào tạo giáo viên mầm non theo chuẩn năng lực

TS. Bùi Thị Việt

Chiều ngày 5/7/2024, tại Hội trường nhà A2, Trường Đại học Tiền Giang đã diễn ra Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đổi mới hoạt động đào tạo bồi dưỡng giáo viên mầm non tỉnh Tiền Giang đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục”. Hội thảo thu hút sự tham dự của đông đảo đại biểu, gồm đại diện UBND tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Tiền Giang, đại diện Ban Giám hiệu Trường Đại học Tiền Giang các cơ quan ban ngành liên quan, gần 100 cán bộ quản lý, giáo viên mầm non trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.

Tại hội thảo, các đại biểu đã nghe các tham luận về thực trạng và giải pháp đổi mới hoạt động đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non; thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm về công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non; đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.

Hội thảo đã diễn ra trong bầu không khí sôi nổi, tích cực với nhiều ý kiến tham luận tâm huyết, chất lượng. Qua đó, đã thống nhất một số giải pháp đổi mới hoạt động đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.

Xin giới thiệu bài báo đăng trong kỉ yếu Hội thảo và là tư liệu bài Báo cáo tham luận của TS. Bùi Thị Việt – Trưởng Khoa Khoa học Giáo dục – ĐHNTT.

1.   Giới thiệu

Nâng cao chất lượng đào tạo GVMN – nền tảng cho sự phát triển toàn diện của trẻ em. Giáo dục hiện đại đang trải qua giai đoạn đổi mới mạnh mẽ theo hướng phát triển năng lực, chú trọng giáo dục toàn diện cho trẻ. Trong bối cảnh đó, Giáo dục Mầm non (GDMN) đóng vai trò vô cùng quan trọng, là nền tảng cho sự phát triển toàn diện của trẻ em, góp phần hình thành nhân cách, trí tuệ và thể chất cho thế hệ tương lai.

Để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục trẻ mầm non, GVMN cần được trang bị đầy đủ năng lực và phẩm chất phù hợp. Tuy nhiên, hoạt động đào tạo và bồi dưỡng GVMN hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, thể hiện qua một số vấn đề sau:

  • Chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu đổi mới giáo dục, dẫn đến chất lượng đội ngũ GVMN chưa đồng đều.
  • Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo, bồi dưỡng còn thiếu thốn, ảnh hưởng đến hiệu quả học tập của giáo viên.
  • Chất lượng GDMN chưa cao, tỷ lệ trẻ em được hưởng GDMN đạt chuẩn còn thấp, chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ chưa đồng đều.

Nhận thức được những hạn chế này, việc nghiên cứu giải pháp đổi mới hoạt động đào tạo bồi dưỡng GVMN là vô cùng cấp bách. Mục tiêu của việc đổi mới cần tập trung vào:

  • Xác định rõ mục đích, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đào tạo GVMN.
  • Phát triển năng lực và phẩm chất quan trọng của người GVMN, đảm bảo đủ về số lượng và đồng đều về chất lượng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
  • Tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ GVMN có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của GDMN trong giai đoạn mới.

Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng GVMN cần được đổi mới căn bản, trang bị cho giáo viên kiến thức, kỹ năng và năng lực cần thiết để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục trẻ trong điều kiện giáo dục hiện đại. Việc đổi mới này sẽ góp phần nâng cao chất lượng GDMN, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển toàn diện của trẻ em, góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.

2.   Nội dung nghiên cứu

2.1. Bồi dưỡng GVMN hiện nay ở các cơ sở GDMN: Thực trạng và giải pháp

Giáo dục mầm non đóng vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần hình thành nhân cách, trí tuệ và thể chất cho thế hệ trẻ. Chất lượng GDMN phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó chất lượng đội ngũ GVMN đóng vai trò then chốt.

Kết quả nghiên cứu nhu cầu bồi dưỡng của GVMN tại Liên bang Nga thông qua việc phân tích dữ liệu thu thập từ khảo sát, phỏng vấn và thảo luận nhóm cho thấy GVMN Nga có nhu cầu bồi dưỡng cao về nhiều lĩnh vực, bao gồm: phương pháp giảng dạy, đánh giá trẻ, quản lý lớp học, sử dụng công nghệ thông tin, và giáo dục hòa nhập [1].

Chiến lược hiện đại hóa giáo dục Nga xác định “nâng cao trình độ chuyên môn của giáo viên và xây dựng đội ngũ giảng viên đáp ứng nhu cầu của cuộc sống hiện đại” là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chính sách giáo dục quốc gia [2, tr. 3].

Hiện nay, việc đảm bảo đội ngũ GVMN có năng lực giải quyết hiệu quả các vấn đề giáo dục đang trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, xuất phát từ nhiều yếu tố kinh tế – xã hội.

Công tác GDMN lấy mục tiêu và nguyên tắc nhân văn làm nền tảng cho hoạt động sư phạm với trẻ. Chất lượng GDMN phụ thuộc chủ yếu vào bản chất giao tiếp và tương tác giữa người lớn và trẻ em. Sự tương tác giữa giáo viên và trẻ mầm non có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tâm lý – tình cảm, nhân cách, hình thành những phẩm chất cá nhân quan trọng, kiến thức, kỹ năng, các mối quan hệ, động lực và giá trị của trẻ. Do đó, các nhà giáo dục cần rèn luyện và phát triển những phẩm chất cá nhân có ý nghĩa chuyên môn, nghề nghiệp dựa trên cách tiếp cận cá nhân hóa với trẻ và đảm bảo sự thành công trong quá trình giáo dục. [3]

Trong báo cáo kết qủa nghiên cứu của Nguyễn Thị Hiền [4] đã tổng quan các nghiên cứu về bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho GVMN trên thế giới và ở Việt Nam bằng nhiều cách tiếp cận, khái quát những điểm tương đồng và khác biệt trong các nghiên cứu trong và ngoài nước. Năng lực nghề nghiệp GVMN là vấn đề được các nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu khi chất lượng GVMN được coi là yếu tố quyết định chất lượng GDMN. Trong xu thế đổi mới GDMN theo định hướng “lấy trẻ làm trung tâm”, GVMN phải đạt được năng lực chuyên môn với những chuẩn mực nhất định. Vì vậy, việc bồi dưỡng, quản lý việc nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo viên là hết sức cần thiết.

Các tác giả Nguyễn Thị Hiền, Trần Văn Trung trong báo cáo nghiên cứu thực trạng bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ GVMN khu vực Đông Nam Bộ đã chỉ ra một số vấn đề như sau: Số lượng GVMN khu vực Đông Nam Bộ đáp ứng nhu cầu về mặt số lượng, tuy nhiên chất lượng chưa đồng đều; Nội dung và hình thức bồi dưỡng còn hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu và yêu cầu của GVMN; phương pháp bồi dưỡng chưa đổi mới, chủ yếu áp dụng phương pháp truyền thống; cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ bồi dưỡng chưa đầy đủ; chính sách đãi ngộ cho GVMN tham gia bồi dưỡng chưa thực sự hấp dẫn. Các tác giả cũng đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bồi dưỡng như: Xây dựng chiến lược bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho GVMN một cách bài bản, khoa học; đa dạng hóa nội dung và hình thức bồi dưỡng, chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin; đổi mới phương pháp bồi dưỡng, hướng đến phương pháp tích cực, chủ động; nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ bồi dưỡng; có chính sách đãi ngộ hợp lý cho GVMN tham gia bồi dưỡng. [5]

Trong nghiên cứu “Vận dụng mô hình PDCA trong quản lí bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp đội ngũ GVMN: một số vấn đề lí luận”, tác giả Nguyễn Thị Hiền, Trần Văn Trung đề xuất vận dụng mô hình PDCA (Plan – Do – Check – Act) vào quản lý bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ GVMN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bồi dưỡng như lập kế hoạch (xác định nhu cầu bồi dưỡng, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chi tiết, cụ thể); thực hiện (tổ chức các hoạt động bồi dưỡng theo kế hoạch, đảm bảo chất lượng); kiểm tra (đánh giá hiệu quả bồi dưỡng thông qua các hình thức như khảo sát, quan sát, đánh giá kết quả học tập), v.v; điều chỉnh (dựa trên kết quả đánh giá, điều chỉnh kế hoạch và chương trình bồi dưỡng cho phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của GVMN). Ngoài ra các tác giả cũng chỉ ra một số vấn đề lí luận cần được nghiên cứu thêm như các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng mô hình PDCA vào quản lý bồi dưỡng GVMN; giải pháp nâng cao năng lực của cán bộ quản lý bồi dưỡng trong việc áp dụng mô hình PDCA; kinh nghiệm áp dụng mô hình PDCA vào quản lý bồi dưỡng GVMN tại các địa phương khác nhau. [6]

Năng lực nghề nghiệp của GVMN là khả năng thực hiện hiệu quả các hoạt động chuyên môn, đáp ứng yêu cầu của công việc, được xây dựng trên nền tảng giáo dục khoa học vững vàng và thái độ tích cực đối với sự nghiệp giáo dục. Năng lực này bao gồm những yếu tố sau

  1. Hệ thống giá trị và phẩm chất cá nhân: Yêu thương trẻ em, có tinh thần trách nhiệm cao; có lòng nhân ái, sự kiên nhẫn và khả năng thấu hiểu trẻ; có tinh thần sáng tạo, đổi mới và ham học hỏi; có khả năng làm việc nhóm và hợp tác hiệu quả.
  2. Kiến thức chuyên môn: Nắm vững lý thuyết giáo dục mầm non và các phương pháp giáo dục tiên tiến. Hiểu biết về đặc điểm phát triển tâm lý, sinh lý của trẻ em ở độ tuổi mầm non. Có kiến thức về chương trình giáo dục mầm non quốc gia. Nắm vững các kỹ năng giảng dạy, tổ chức hoạt động và quản lý lớp học.
  3. Kỹ năng chuyên môn: Biết cách lập kế hoạch giáo dục cho trẻ em ở độ tuổi mầm non. Biết cách tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi và rèn luyện cho trẻ. Biết cách đánh giá kết quả học tập của trẻ. Biết cách phối hợp với cha mẹ (người giám hộ hợp pháp) để giáo dục trẻ. Biết cách sử dụng các công cụ hỗ trợ giảng dạy và quản lý lớp học.
  4. Khả năng ứng dụng kiến thức và kỹ năng vào thực tiễn: Biết cách áp dụng các kiến thức và kỹ năng đã học vào việc thực hiện các hoạt động giáo dục cho trẻ. Biết cách giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình giáo dục trẻ. Biết cách sáng tạo và đổi mới các phương pháp giáo dục. Biết cách học hỏi và trau dồi kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ.

2.3. Những năng lực thiết yếu của GVMN để thúc đẩy sự phát triển của trẻ

  1. Đảm bảo sự phát triển về mặt cảm xúc cho trẻ: Giúp trẻ cảm thấy được yêu thương, an toàn và tin tưởng. Tạo môi trường học tập vui vẻ, tích cực và khích lệ trẻ. Giúp trẻ học cách nhận biết và quản lý cảm xúc của bản thân.
  2. Hỗ trợ sự phát triển cá nhân và tính chủ động của trẻ: Nhận biết và tôn trọng sự khác biệt của từng trẻ. Khuyến khích trẻ khám phá và học hỏi thông qua các hoạt động đa dạng. Giúp trẻ phát triển các kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định.
  3. Thiết lập các quy tắc tương tác phù hợp cho trẻ: Dạy trẻ cách cư xử tôn trọng bản thân và người khác. Giúp trẻ giải quyết mâu thuẫn một cách hòa bình. Tạo môi trường học tập an toàn và thân thiện cho tất cả trẻ em.
  4. Xây dựng chương trình giáo dục đa dạng và phát triển, hướng đến khu vực phát triển gần nhất của mỗi trẻ: Thiết kế các hoạt động học tập phù hợp với sở thích, nhu cầu và khả năng của từng trẻ. Sử dụng các phương pháp giảng dạy đa dạng để khơi gợi hứng thú và sự sáng tạo của trẻ. Giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, xã hội và tình cảm.
  5. Tăng cường hợp tác với cha mẹ (người giám hộ hợp pháp) về các vấn đề giáo dục của trẻ: Chia sẻ thông tin về sự phát triển của trẻ với cha mẹ. Tham gia vào việc lập kế hoạch giáo dục cho trẻ. Cung cấp cho cha mẹ các nguồn lực và hỗ trợ để họ có thể tham gia vào việc giáo dục con cái.

2.2.                 Đào tạo GVMN hiện nay ở các cơ sở đào tạo: Thực trạng và giải pháp

GVMN đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu GDMN, đặc biệt là trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, GVMN cần có năng lực đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục, bao gồm năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm và năng lực chung. Trong nghiên cứu của Cù Thị Thủy cũng chỉ ra thực trạng phát triển đội ngũ GVMN hiện nay: Đội ngũ GVMN còn nhiều hạn chế về năng lực, đặc biệt là năng lực đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục; chất lượng đào tạo GVMN chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế; chính sách đãi ngộ cho GVMN còn chưa thỏa đáng. Nghiên cứu cũng xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển năng lực của GVMN theo tiếp cận năng lực. Trên cơ sở đó tác giả đề ra các giải pháp phát triển đội ngũ GVMN theo tiếp cận năng lực như đổi mới chương trình đào tạo GVMN theo hướng phát triển năng lực; nâng cao chất lượng bồi dưỡng GVMN; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo và bồi dưỡng GVMN, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng cho GVMN; đề xuất mô hình phát triển đội ngũ GVMN theo tiếp cận năng lực trong đổi mới giáo dục; xây dựng chương trình đào tạo GVMN theo tiếp cận năng lực. [7]

Giải quyết vấn đề đào tạo GVMN góp phần nâng cao chất lượng GDMN. Đào tạo GVMN có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội trong giai đoạn mới.

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về thực trạng công tác bồi dưỡng GVMN, song vấn đề đào tạo GVMN hiện nay ở các cơ sở đào tạo vẫn còn nhiều hạn chế liên quan đến Chương trình đào tạo GVMN, chất lượng đội ngũ giảng viên đào tạo GVMN, cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ đào tạo GVMN, tổ chức cho sinh viên thực hành sư phạm… Những vấn đề này đặt ra nhu cầu cấp thiết cần phải đổi mới hoạt động đào tạo, bồi dưỡng GVMN:

– Phù hợp với chương trình GDMN mới: Chương trình GDMN được xây dựng theo định hướng phát triển toàn diện cho trẻ, chú trọng vào việc hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho trẻ. Do vậy, GVMN cần được bồi dưỡng để có kiến thức và kỹ năng thực hiện tốt chương trình mới.

– Đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp GDMN: Phương pháp GDMN hiện nay đang chuyển dần từ phương pháp truyền thống sang phương pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, khuyến khích trẻ tích cực tham gia vào hoạt động học tập. Do vậy, GVMN cần được bồi dưỡng để đổi mới phương pháp giảng dạy, phù hợp với phương pháp giáo dục mới.

– Nâng cao chất lượng GDMN: GDMN đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách và phát triển tư duy cho trẻ. Do vậy, cần đổi mới hoạt động đào tạo, bồi dưỡng GVMN để nâng cao chất lượng GDMN, góp phần đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện.

– Cập nhật kiến thức, kỹ năng mới: Xã hội ngày càng phát triển, đòi hỏi GVMN cần thường xuyên cập nhật kiến thức, kỹ năng mới để đáp ứng yêu cầu của thời đại. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng GVMN cần được đổi mới để giúp GVMN cập nhật những kiến thức, kỹ năng mới nhất trong lĩnh vực GDMN.

– Nâng cao vị thế của GVMN: GVMN đóng vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Do vậy, cần đổi mới hoạt động đào tạo, bồi dưỡng GVMN để nâng cao vị thế của GVMN, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào ngành GDMN.

2.2.1. Những dấu hiệu cho thấy CTĐT ngành GDMN chưa đáp ứng nhu cầu thực tế

– Thiếu hụt GVMN có kỹ năng thực hành: Nhiều SV sau khi tốt nghiệp ngành GDMN còn lúng túng trong việc thực hành giảng dạy, thiếu kỹ năng quản lớp, tổ chức hoạt động cho trẻ. Do CTĐT tập trung nhiều vào lý thuyết, ít có cơ hội cho SV thực hành trực tiếp tại các trường mầm non.

– Kiến thức chưa cập nhật: Một số nội dung trong CTĐT đã lỗi thời, không phù hợp với thực tế GDMN hiện nay. Chương trình chưa cập nhật những kiến thức, kỹ năng mới cần thiết cho GVMN trong thời đại công nghệ số.

– Phương pháp đào tạo chưa đổi mới, còn chủ yếu theo kiểu truyền thống, ít có cơ hội cho SV tự học, rèn luyện kỹ năng. Việc đánh giá SV còn nặng về lý thuyết, chưa chú trọng vào đánh giá khả năng thực hành của SV

– Thiếu sự liên kết giữa nhà trường và thực tiễn: Nội dung đào tạo chưa sát với nhu cầu thực tế của các trường mầm non, thiếu sự thống nhất trong trong việc tổ chức thực tập cho SV giữa cơ sở đào tạo và cơ sở GDMN.

– Cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ đào tạo còn hạn chế, thiếu trang thiết bị, phòng học hiện đại.

Ngoài ra, một số dấu hiệu khác cho thấy CTĐT ngành GDMN chưa đáp ứng nhu cầu thực tế như nhiều GVMN nghỉ việc sau một thời gian ngắn do không chịu được áp lực công việc; phụ huynh học sinh không hài lòng với chất lượng GDMN.

2.2.2. Những dấu hiệu cho thấy CTĐT ngành GDMN chưa chưa đổi mới

– Nội dung đào tạo chưa cập nhật: CTĐT còn tập trung nhiều vào lý thuyết, thiếu tính thực tiễn; chưa cập nhật những kiến thức, kỹ năng mới cần thiết cho GVMN trong thời đại công nghệ số; chương trình chưa chú trọng đào tạo kỹ năng sử dụng công nghệ giáo dục, kỹ năng quản lý lớp học theo phương pháp hiện đại, kỹ năng xây dựng môi trường học tập lấy trẻ làm trung tâm,…

– Phương pháp giảng dạy truyền thống: Chủ yếu theo kiểu truyền thống, bài giảng lý thuyết “thầy truyền thụ, trò tiếp thu”, thụ động, ít khuyến khích sự sáng tạo của SV ít có hoạt động thảo luận, thực hành, dự án; ít có cơ hội cho SV tự học, thiếu các hoạt động thực hành, rèn luyện kỹ năng cho SV;

– Thiếu liên kết giữa nhà trường và thực tiễn: nội dung đào tạo chưa sát với nhu cầu thực tế của các trường mầm non; ít có sự phối hợp giữa nhà trường và các trường mầm non trong việc tổ chức thực tập cho SV. SV sau khi tốt nghiệp thường gặp nhiều khó khăn trong việc thích nghi với môi trường làm việc thực tế. Chưa chú trọng rèn luyện cho SV kỹ năng giải quyết các vấn đề thực tế trong công việc.

– Cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ đào tạo hạn chế: thiếu trang thiết bị, phòng học hiện đại, trang thiết bị dạy học tiên tiến, đồ chơi, học liệu cho sinh viên thực hành dẫn đến tình trạng SV sau tốt nghiệp chưa có đủ kiến thức, kỹ năng để đáp ứng yêu cầu công việc, thiếu kinh nghiệm thực tế, khả năng sư phạm chưa tốt,…

– Chất lượng đầu ra chưa cao: Nhiều GVMN nghỉ việc sau một thời gian ngắn do không chịu được áp lực công việc; phụ huynh chưa hài lòng với chất lượng GDMN.

Từ những dấu hiệu trên đòi hỏi phải đổi mới mô hình đào tạo ngành GDMN.

2.3. Đổi mới mô hình đào tạo giáo viên mầm non theo chuẩn năng lực

Đổi mới mô hình đào tạo ngành GDMN là một quá trình thay đổi toàn diện về mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành GDMN trong giai đoạn mới.

Hiện nay có một số mô hình đào tạo tiên tiến đang được áp dụng trong đào tạo ngành GDMN như mô hình đào tạo theo chuẩn năng lực; mô hình đào tạo theo dự án; mô hình đào tạo tích hợp. Trong báo cáo này tập trung phân tích mô hình đào tạo GVMN theo chuẩn năng lực, là mô hình đào tạo tiên tiến, hướng đến việc đào tạo ra những GVMN có đầy đủ kiến thức, kỹ năng và phẩm chất cần thiết để đáp ứng yêu cầu của công việc trong thời đại mới.

*Đặc trưng của mô hình đào tạo GVMN theo chuẩn năng lực

Mô hình đào tạo GVMN theo chuẩn năng lực có một số đặc trưng nổi bật như sau:

(1) Lấy người học làm trung tâm: Chú trọng vào việc phát triển năng lực của sinh viên, giúp sinh viên có đủ kiến thức, kỹ năng và phẩm chất cần thiết để trở thành GVMN có chất lượng; sinh viên được khuyến khích chủ động trong học tập, tích cực tham gia các hoạt động học tập, rèn luyện và thực hành; chương trình đào tạo được thiết kế linh hoạt, đáp ứng nhu cầu và khả năng của từng sinh viên.

(2) Dựa trên chuẩn năng lực GVMN: Lấy chuẩn năng lực GVMN do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành làm cơ sở để xây dựng chương trình đào tạo và đánh giá sinh viên; Chương trình đào tạo tập trung vào việc phát triển các năng lực cốt lõi của GVMN gồm năng lực chuyên môn, năng lực chung và năng lực sư phạm; Sinh viên được đánh giá dựa trên kết quả học tập, rèn luyện và thực hành, đảm bảo đáp ứng chuẩn năng lực GVMN.

(3) Tiếp cận giáo dục hiện đại: áp dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại, tích cực, giúp sinh viên học tập hiệu quả và phát huy tính sáng tạo; sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập, giúp sinh viên tiếp cận với nguồn tài liệu phong phú và cập nhật; mở rộng hợp tác quốc tế, trao đổi học thuật với các trường đại học uy tín trong khu vực và trên thế giới, giúp sinh viên tiếp cận với những kiến thức và kinh nghiệm tiên tiến trong GDMN.

(4) Gắn kết lý thuyết với thực tiễn: chú trọng đến việc kết nối lý thuyết với thực tiễn GDMN; sinh viên được tham gia thực tập tại các trường mầm non ngay từ những năm đầu học tập, củng cố kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực tế; các hoạt động thực hành phong phú, đa dạng, giúp sinh viên áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn.

(5) Đánh giá liên tục, toàn diện: áp dụng hệ thống đánh giá liên tục, toàn diện, giúp đánh giá năng lực của sinh viên một cách khách quan và chính xác; sinh viên được đánh giá qua nhiều hình thức khác nhau, bao gồm: đánh giá kết quả học tập, đánh giá rèn luyện, đánh giá thực hành và đánh giá thái độ; kết quả đánh giá được sử dụng để điều chỉnh chương trình đào tạo và hỗ trợ sinh viên học tập hiệu quả hơn.

Ngoài ra, còn có một số đặc trưng nổi bật khác như: Chương trình đào tạo được thiết kế theo hướng tích hợp các lĩnh vực kiến thức, giúp sinh viên có cái nhìn tổng quan về GDMN; đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm thực tiễn; cơ sở vật chất hiện đại, đáp ứng nhu cầu học tập và rèn luyện của sinh viên.

Mô hình đào tạo GVMN theo chuẩn năng lực là một mô hình đào tạo GVMN tiên tiến, hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng GDMN trong tương lai.

Mục tiêu của đổi mới mô hình đào tạo ngành GDMN: Đào tạo ra những GVMN có chất lượng cao, có đầy đủ kiến thức, kỹ năng và phẩm chất cần thiết để đáp ứng yêu cầu của công việc, có khả năng thích ứng với sự thay đổi của môi trường giáo dục và xã hội, có tinh thần ham học hỏi, sáng tạo và đổi mới.

Đổi mới nội dung đào tạo ngành GDMN: cập nhật những kiến thức, kĩ năng mới, cần thiết cho GVMN trong thời đại công nghệ số; tăng cường tính thực tiễn cho CTĐT; giảm tải nội dung lý thuyết, chú trọng vào rèn luyện kỹ năng cho SV.

Chương trình đào tạo được thiết kế theo hướng tích hợp, liên kết kiến thức của nhiều ngành học khác nhau; chú trọng vào việc rèn luyện kỹ năng cho SV, bao gồm kỹ năng sư phạm, kỹ năng quản lý lớp học, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sử dụng công nghệ giáo dục,…

Đổi mới phương pháp đào tạo: Áp dụng các phương pháp đào tạo tiên tiến, tích cực như: học tập theo dự án, học tập vấn đề, học tập thông qua trải nghiệm,…; tăng cường sử dụng công nghệ giáo dục trong giảng dạy và học tập; tạo môi trường học tập lấy người học làm trung tâm, khuyến khích SV tự học, rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp.

Đổi mới hình thức đào tạo: Kết hợp đào tạo lý thuyết với thực hành; tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa, thực tập cho SV. Khuyến khích SV tham gia nghiên cứu khoa học, sáng tạo, khởi nghiệp.

Đổi mới phương pháp, hình thức đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của sinh viên: SV được đánh giá liên tục, toàn diện thông qua nhiều hình thức khác nhau như: đánh giá kết quả học tập, đánh giá thực hành, đánh giá thái độ học tập,…;

Mô hình đào tạo GVMN theo chuẩn năng lực chú trọng vào đánh giá năng lực thực hành của SV thay vì chỉ đánh giá kiến thức lý thuyết, bao gồm các nhóm năng lực chính sau:

(1) Năng lực đạo đức: Yêu thương trẻ, có ý thức trách nhiệm cao trong công việc, trung thực, liêm chính, có tinh thần trách nhiệm; luôn tôn trọng trẻ, phụ huynh và đồng nghiệp; Có ý thức giữ gìn và bảo vệ môi trường.

(2) Năng lực giao tiếp: Khả năng giao tiếp hiệu quả với trẻ, phụ huynh và đồng nghiệp; khả năng sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác, rõ ràng và sinh động; khả năng lắng nghe và thấu hiểu người khác; khả năng giải quyết mâu thuẫn một cách hiệu quả.

(3) Năng lực sư phạm: Khả năng thiết kế và tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp với lứa tuổi và trình độ phát triển của trẻ; khả năng sử dụng các phương pháp giáo dục tiên tiến, tích cực; khả năng quản lý lớp học hiệu quả; khả năng đánh giá và hướng dẫn trẻ học tập; khả năng giao tiếp hiệu quả với trẻ, phụ huynh và đồng nghiệp.

(4) Năng lực thực hành: Khả năng thực hiện các kỹ năng cơ bản như: hát, múa, vẽ, làm thủ công,…; khả năng sử dụng các công cụ, đồ dùng dạy học hiệu quả; khả năng tổ chức các hoạt động vui chơi cho trẻ; khả năng chăm sóc sức khỏe cho trẻ; khả năng xử lý các tình huống phát sinh trong lớp học.

Phương pháp đánh giá năng lực thực hành của SV ngành GDMN:

Đánh giá trực tiếp: Quan sát SV thực hành giảng dạy, tổ chức các hoạt động giáo dục, tham gia thảo luận nhóm, trao đổi ý kiến với SV; Phỏng vấn SV về các vấn đề giáo dục.

Đánh giá gián tiếp: Phân tích sản phẩm của SV như: giáo án, bài giảng, đồ dùng dạy học,..; tham khảo ý kiến của phụ huynh học sinh về chất lượng giáo dục của SV; xem xét kết quả học tập của SV

(5) Năng lực tư duy phản biện của SV ngành GDMN đóng vai trò quan trọng trong việc giúp sinh viên tiếp thu kiến thức, rèn luyện kỹ năng và hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Sử dụng các tiêu chí đánh giá sau:

– Khả năng phân tích thông tin: SV có thể thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm sách báo, tài liệu, internet,…; Biết cách phân tích thông tin một cách logic, khoa học để xác định tính chính xác, khách quan, mức độ tin cậy của thông tin.

– Khả năng đặt câu hỏi: SV có thể đặt ra những câu hỏi sáng tạo, thiết thực để thu thập thông tin và giải quyết vấn đề; biết cách đặt ra những câu hỏi mở, khuyến khích trẻ tư duy phản biện; có khả năng đặt ra những câu hỏi khó để thách thức bản thân và người khác.

– Khả năng lập luận: SV có thể đưa ra lập luận một cách logic, chặt chẽ để bảo vệ quan điểm của mình; biết cách sử dụng các dẫn chứng, ví dụ để minh họa cho lập luận; có khả năng phản bác lập luận của người khác một cách khách quan, lịch sự và tôn trọng ý kiến trái chiều.

– Khả năng giải quyết vấn đề, bao gồm:

+ Khả năng nhận diện và phân tích vấn đề: SV có thể xác định rõ ràng vấn đề cần giải quyết: nguyên nhân, biểu hiện và hậu quả của vấn đề; biết cách thu thập thông tin, phân tích dữ liệu để hiểu rõ bản chất của vấn đề; khả năng nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau.

+ Khả năng sáng tạo và lựa chọn giải pháp: SV có thể đưa ra nhiều giải pháp sáng tạo, khả thi để giải quyết vấn đề; biết cách đánh giá ưu và nhược điểm của từng giải pháp để lựa chọn giải pháp tối ưu nhất; có khả năng linh hoạt điều chỉnh giải pháp phù hợp với tình huống thực tế.

+ Khả năng triển khai và thực hiện giải pháp: SV có thể lập kế hoạch cụ thể, chi tiết để thực hiện giải pháp; biết cách phân công nhiệm vụ, tổ chức thực hiện giải pháp một cách hiệu quả; có khả năng kiểm soát tiến độ thực hiện giải pháp và điều chỉnh khi cần thiết.

+ Khả năng đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm: SV có thể đánh giá hiệu quả của giải pháp đã thực hiện; biết cách rút kinh nghiệm từ những thành công và thất bại trong quá trình giải quyết vấn đề; có khả năng áp dụng kinh nghiệm để giải quyết những vấn đề tương tự trong tương lai.

Phương pháp đánh giá khả năng giải quyết vấn đề của SV ngành GDMN: Giao bài tập tình huống: SV được trình bày với một tình huống cụ thể và yêu cầu đưa ra giải pháp để giải quyết vấn đề; Thực hiện dự án: tham gia vào các dự án GDMN và tự mình giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện dự án; tham gia thảo luận nhóm về các vấn đề GDMN và đưa ra giải pháp chung cho nhóm.

– Khả năng sáng tạo: SV có thể sử dụng kỹ năng tư duy phản biện để đưa ra những ý tưởng mới, sáng tạo; biết cách kết hợp các kiến thức và kỹ năng khác nhau để tạo ra những sản phẩm mới; có khả năng tư duy độc lập và không ngại thử thách những điều mới.

Phương pháp đánh giá kỹ năng tư duy phản biện:

  • Viết bài luận: SV được yêu cầu viết bài luận về một chủ đề cụ thể và bảo vệ quan điểm của mình bằng lập luận logic, chặt chẽ.
  • Thảo luận nhóm: SV được tham gia thảo luận nhóm về các vấn đề GDMN và đưa ra quan điểm của mình.
  • Giải quyết vấn đề: SV được trình bày với một vấn đề cụ thể và yêu cầu đưa ra giải pháp để giải quyết vấn đề.

Kỹ năng tư duy phản biện là một kỹ năng quan trọng đối với SV ngành GDMN. Việc rèn luyện kỹ năng tư duy phản biện giúp SV có thể suy nghĩ độc lập, sáng tạo và giải quyết vấn đề một cách hiệu quả. Kỹ năng này cũng giúp SV trở thành những GVMN có khả năng truyền cảm hứng cho trẻ học tập và phát triển toàn diện.

Ngoài ra, SV ngành GDMN còn được đánh giá dựa trên một số tiêu chí khác như: thái độ học tập, ý thức tổ chức kỷ luật, khả năng thích nghi với môi trường làm việc,…

Hoạt động đào tạo theo mô hình chuẩn năng lực lấy Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non làm kim chỉ nam, bởi trong đó quy định đầy đủ về phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn – hai yếu tố then chốt tạo nên một nhà giáo viên xuất sắc. Nội dung cốt lõi của Chuẩn nghề nghiệp giáo viên bao gồm (1) Hoạt động giảng dạy: Khả năng truyền đạt kiến thức, kỹ năng và thái độ hiệu quả; (2) Nuôi dưỡng trẻ: Năng lực định hướng, giáo dục và hỗ trợ trẻ phát triển toàn diện; (3) Phát triển trẻ: Khuyến khích trẻ khám phá tiềm năng, sáng tạo và tự chủ trong học tập.

Tiêu chuẩn nghề nghiệp giáo viên đóng vai trò quan trọng cho hoạt động nghề nghiệp của mỗi nhà giáo, góp phần tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của thế hệ trẻ tương lai.

Phân tích trên cho thấy: Mô hình đào tạo GVMN theo chuẩn năng lực là mô hình đào tạo tiên tiến, phù hợp với xu hướng phát triển của GDMN trong thời đại mới.

  1. Giải pháp đổi mới đào tạo, bồi dưỡng GVMN theo mô hình chuẩn năng lực

Mô hình đào tạo GVMN theo chuẩn năng lực chú trọng lấy người học làm trung tâm, chú trọng vào việc phát triển năng lực của sinh viên, giúp sinh viên có đủ kiến thức, kỹ năng và phẩm chất cần thiết để trở thành GVMN có chất lượng; áp dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại, tích cực, giúp sinh viên học tập hiệu quả và phát huy tính sáng tạo.

Để đổi mới hoạt động đào tạo, bồi dưỡng GVMN theo mô hình chuẩn năng lực cần tập trung đảm bảo:

Cập nhật chương trình đào tạo GVMN theo định hướng phát triển năng lực; Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đào tạo GVMN; đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ đào tạo GVMN; Tăng cường thực hành sư phạm cho sinh viên GVMN; có chính sách đãi ngộ thu hút sinh viên theo học ngành GVMN.

Áp dụng hiệu quả mô hình đào tạo GVMN theo chuẩn năng lực cần có sự đầu tư và phối hợp chặt chẽ:  Để áp dụng hiệu quả mô hình này cần có sự đầu tư lớn về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ giảng viên; Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và các bên liên quan, bao gồm Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở đào tạo, đội ngũ GVMN và các doanh nghiệp.

3.   kết luận

Đào tạo, bồi dưỡng GVMN hiện nay ở các cơ sở đào tạo cần đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo. Đây chính là chìa khóa cho sự phát triển bền vững của GDMN;

Mô hình đào tạo GVMN theo chuẩn năng lực đang được triển khai tại một số trường đại học ở Việt Nam và đã thu được những kết quả tích cực; và thu được những kết quả tích cực. Trong tương lai, mô hình này sẽ được áp dụng rộng rãi hơn nữa, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo GVMN và đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành GDMN trong thời đại mới.

Việc đổi mới đào tạo, bồi dưỡng GVMN theo mô hình chuẩn năng lực là nhu cầu cấp thiết nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của GDMN trong giai đoạn mới. Việc đổi mới cần được thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý giáo dục, các cơ sở đào tạo và đội ngũ GVMN.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Т. А. Сваталова: исследование готовности педагогов дошкольного образования к использованию цифровых технологий в педагогической деятельности. Научно-теоретический журнал. Выпуск 1 (46) 2021

[2] Бим-Бад Б.М. К концепции модернизации профессионального педагогического образования // Вестн. Ун-та Рос. акад. образования. -2003-№ 1. — с. 45-50.

[3] Слепцова, Ирина Федоровна. Формирование готовности будущих воспитателей к взаимодействию с детьми дошкольного возраста в процессе профессиональной подготовки. кандидат педагогических наук, 2007

[4] Nguyễn Thị Hiền (2023) Tổng quan nghiên cứu về bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp GVMN. Tạp chí Giáo dục Tập 23, Số đặc biệt 10 (tháng 10/2023)

[5] Nguyễn Thị Hiền, Trần Văn Trung, Bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ GVMN khu vực Đông Nam Bộ: thực trạng và một số khuyến nghị, Tạp chí Giáo dục: Tập 23, Số 22 (tháng 11/2023)

[6] Nguyễn Thị Hiền, Trần Văn Trung, Vận dụng mô hình PDCA trong quản lí bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp đội ngũ GVMN: một số vấn đề lí luận, Tạp chí Giáo dục: Tập 23, Số 19 (tháng 10/2023)

[7] Cù Thị Thủy (2020). Phát triển đội ngũ GVMN theo tiếp cận năng lực trong đổi mới giáo dục. Luận án tiến sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Call Now